Trong vài năm liền tôi bỏ qua một trong những lĩnh vực làm ăn tốt nhất ở Phố Wall, lĩnh vực kinh doanh quỹ tương hỗ. Giống như một nhà quản lý một khu phố buôn bán lớn bỏ qua không mua cổ phiếu của Gap khi các kết quả kinh doanh đã sờ sờ ngay trước mắt, tôi cũng đã không mua Dreyfus, Franklin Resources, Colonial Group, T.Rowe Price, State Street Bank, Alliance Capital Management, và Eaton Vance. Tôi thật sự không hiểu tại sao. Có lẽ, tôi đã không nhìn ra nhiều loại cây trong một khu rừng. Cổ phiếu duy nhất mà tôi mua là United Asset Management, một công ty ký hợp đồng với 30 - 40 nhà quản lý quỹ và đã thuê đứt họ khỏi các công ty khác.
Các công ty này còn được biết đến là những công ty trực tiếp kinh doanh quỹ tương hỗ, không giống với Putnam, một công ty con của Marsh-McLennnan hay Kemper cũng kinh doanh đầu tư tín thác nhưng thiên về bán bảo hiểm nhiều hơn. Tất cả tám công ty này đều kinh doanh tốt trong những năm 1988 - 1989, khi mà nỗi lo sợ rằng ngành công nghiệp đầu tư tín thác sẽ sụp đổ sau Đại khủng hoảng 1987 hóa ra lại bị phóng đại quá mức.
Đợt suy thoái này cho tôi cơ hội mua những cổ phiếu của các công ty kinh doanh quỹ tương hỗ mà tôi đã bỏ qua trước đó với mức giá thấp. Đây lại là một lĩnh vực đầu tư khác trong danh mục đầu tư nếu-thì yêu thích của tôi: nếu chia số tiền của bạn đều cho tám loại cổ phiếu này và giữ chúng từ đầu năm 1988 đến cuối năm 1989 thì những công ty này đã giúp bạn cải thiện 99% các quỹ.
Trong những thời kì mà các quỹ tương hỗ phổ biến, việc đầu tư vào các công ty bán các quỹ này dường như có lợi hơn đầu tư vào các sản phẩm của chúng. Tôi nhớ lại trong cơn sốt vàng thì những người bán cuốc xẻng lại kiếm được nhiều lợi nhuận hơn những người đi tìm vàng.
Khi lãi suất giảm, trái phiếu và các quỹ vốn cổ phần có xu hướng thu hút nhiều tiền mặt nhất và các công ty chuyên kinh doanh về các quỹ này (như Eaton Vance và Colonial) đặc biệt có lãi. Dreyfus quản lý rất nhiều tài sản của thị trường tiền tệ. Vì vậy khi lãi suất tăng và mọi người rút khỏi thị trường chứng khoán và các trái phiếu dài hạn thì Dreyfus lại ở giai đoạn phát triển thịnh vượng. Alliance Capital quản lý tiền cho các tổ chức và cũng quản lý các quỹ tuơng hỗ được bán cho các cá nhân thông qua những nhà môi giới. Nó trở thành công ty đại chúng từ năm 1988. Năm 1990, giá cổ phiếu của nó giảm một chút rồi từ đó tăng cao liên tục.
Gần đây hàng tỷ đô-la liên tục được đổ vào trái phiếu, cổ phiếu và các quỹ tương hỗ của thị trường tiền tệ thì không có gì ngạc nhiên khi thấy các công ty kinh doanh quỹ tương hỗ này lại hoạt động quá tốt đến vậy. Nếu có gì ngạc nhiên thì chỉ là chưa có ai thành lập Quỹ tương hỗ của các công ty kinh doanh quỹ tương hỗ mà thôi.
Thông tin về công ty nào tham gia vào và rút lui ra khỏi loại quỹ nào luôn được ngành này công bố bằng các ấn bản, và những chuyên gia hay tay mơ đều có cơ hội tận dụng nó như nhau. Nếu bạn không mua các cổ phiểu này sau đợt giảm giá lớn lần trước thì bạn vẫn có thể mua chúng trong thời kỳ bán tháo do lo sợ cuộc chiến của Saddam vào cuối năm 1990, khi mà Eaton Vance đã bị sụt giảm 30% giá trị trong một năm, Dreyfus là 18,86% và các công ty khác mặc dù nhỏ hơn nhưng mức độ sụt giảm cũng không hề thua kém chút nào.
Một lần nữa những lời đồn thổi về sự sụp đổ của ngành này đã được chứng tỏ là vô căn cứ. Tất cả những gì bạn phải làm để dập tắt nỗi lo sợ này là nhìn vào những con số về doanh thu của các quỹ tương hỗ vào tháng 12/1990 và tháng 1/1991. Mặc dù đã quyết tâm không trở lại với các thói quen cũ, nhưng một lần nữa tôi lại bị ngủ gật khi không khuyến nghị một công ty kinh doanh các quỹ tương hỗ với ban hội thẩm của Barron’s năm 1991. Ai hâm mộ những dự đoán của Lynch (nếu có ai đó, ngoài vợ tôi ra) đã lỡ mất lần hồi phục của Franklin (tăng 75% năm 1991), Dreyfus (55%), T.Rowe Price (116%), United Asset Management (80%), Colonial Group (40%), và State Street Bank (81,77%). Năm đó, Quỹ tương hỗ của các công ty đầu tư kinh doanh quỹ tương hỗ giả tưởng tăng giá trị gần gấp đôi.
0 Comments